BẢN HƯỚNG DẪN

 

“Về các Tiêu Chuẩn để Nhận Thức Ơn Gọi liên quan tới Những Người có Khuynh Hướng Đồng Tính Luyến Ái đối với Việc Chấp Nhận Họ vào Chủng Viện và truyền Thánh Chức”

 

 

Dẫn Nhập

 

Để tiếp nối giáo huấn của Công Đồng Chung Vaticanô, cách riêng của Sắc Lệnh “Optatam totius” (Công Đồng Chung Vaticanô II, sắc lệnh về việc đào luyện linh mục Optatam totius [28 October 1965]: AAS 58 [1966], 713-727) về việc đào luyện linh mục, Thánh Bộ về Giáo Dục Công Giáo đã ban hành một số văn kiện khác nhau để phát động việc đào luyện xứng hợp toàn diện cho các linh mục tương lai, bằng cách cống hiến những hướng dẫn và những tiêu chuẩn xác thực liên quan tới những khía cạnh khác nhau của thiên chức này (Cf. Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, các văn kiện ban hành ngày 6/1/1970 và 19/3/1985; 20/1/1972; 11/4/1974; 2/4/1975; 22/2/ 1976; 14/7/1976; 3/6/1979; 6/1/1980; 1/11/1983; 25/1/1986; 19/3/1986; 6/1/1987; 25/3/1988; 30/12/1988; 10/11/1989; 4/11/1993; 19/3/1995; 9/10/1986 và 8/3/1996; 1/5/1998; 27/7/1992 và 2/2/1999). Trong khi đó, Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới 1990 cũng bàn đến vấn đề đào luyện linh mục trong hoàn cảnh ngày nay, với mục đích làm trọn giáo huấn của Công Đồng về đào luyện này và làm cho vấn đề ấy được rõ ràng hơn và hiệu lực hơn trong thế giới ngày nay. Sau Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới này, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã ban hành Tông Huấn Hậu Thượng Nghị “Pastores dabo vobis” (Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Post-Synodal Apostolic Exhortation "Pastores dabo vobis" [25 March 1992]: AAS 84 [1992], 657-864.).

 

Theo chiều hướng của giáo huấnh phong phú này, bản Hướng dẫn đây không có ý tập trung vào tất cả những vấn đề thuộc lãnh vực tình cảm và tình dục là những gì cần phải chuyên chú nhận thức trong suốt giai đoạn đào luyện. Trái lại, bản hướng dẫn này chứa đựng một vấn đề chuyên biệt, một vấn đề trở thành khẩn trương hơn trong tình trạng hiện nay, đó là vấn đề có nên nhận vào chủng viện và ban thánh chức cho thành phần ứng viên có những khuynh hướng sâu nặng về đồng tính luyến ái hay chăng.

 

1.         Trưởng Thành Về Tình Cảm và Vai Trò Làm Linh Phụ

 

Theo Truyền Thống liên tục của Giáo Hội, thì chỉ có người đã lãnh nhận phép rửa nam tính mới thành hiệu lãnh nhận thánh chức mà thôi (Cf. e.Le., can. 1024 and e.e.E.O., can. 754; Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Tông Thư "Ordinatio sacerdotalis" về Việc Truyền Chức Linh Mục Cho Nam Nhân Mà Thôi [22 May 1994]: AAS 86 [1994], 545-548). Nhờ bí tích truyền chức thánh, Thánh Linh làm cho ứng viên trở thành đồng dạng với Chúa Giêsu Kitô một cách mới mẻ và đặc biệt: về bí tích linh mục thực sự là hiện thân Chúa Kitô, Vị thủ lãnh, chủ chiên và phu quân của Giáo Hội (Cf. Công Đồng Chung Vaticanô II, sắc lệnh về thừa tác vụ và đời sống linh mục "Presbyterorum ordinis" [1 December 1965], n. 2: AAS 58 [1966], 991-993; Pastores dabo vobis, n. 16: AAS 84 [1992], 681-682.: AAS 84 [1992], 691). Bởi tính cách đồng dạng với Chúa Kitô này mà toàn thể đời sống của vị thừa tác viên thánh chức cần phải được sinh động bởi việc hiến toàn thân cho Giáo Hội cũng như bởi đức ái mục vụ chân chính (Cf. "Presbyterorum ordinis," n. 14: AAS 58 [1966], 1013-1014; "Pastores dabo vobis," n. 23: AAS 84 [1992], 691-694).

 

Bởi thế, ứng viên cho thừa tác vụ thánh chức cần phải đạt đến tầm mức trưởng thành về tình cảm. Tầm mức trưởng thành này giúp cho họ biết liên hệ một cách đứng đắn với cả nam lẫn nữ, phát triển nơi họ một cảm quan chân thực về vai trò làm cha thiêng liêng đối với cộng đồng Giáo Hội sẽ được ký thác cho họ (Cf. Thánh Bộ Giáo Sĩ, Bản Hướng Dẫn về Thứa Tác Vụ và Đời Sống Linh Mục [31 March 1994], n. 58.).

 

2.         Vấn đề đồng tính luyến ái và Thừa Tác Vụ Thánh Chức


Từ thời Công Đồng Chung Vaticanô II tới nay, đã có một số văn kiện khác nhau của Huấn Quyền, đặc biệt là cuốn Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, khẳng định giáo huấn của Giáo Hội về vấn đề đồng tính luyến ái. Cuốn Giáo Lý phân biệt giữa những hành động đồng tính với các khuynh hướng đồng tính.

 

Đối với các hành động đồng tính, Sách Giáo Lý dạy rằng Thánh Kinh coi chúng là những trọng tội. Truyền Thống liên lỉ coi chúng tự bản chất là những gì vô luân và nghịch với luật tự nhiên. Bởi thế, không thể nào chấp nhận được những hành động ấy dù ở bất cứ trường hợp nào.

 

Những khuynh hường đồng tính luyến ái sâu nặng được tỏ ra nơi một số con người nam và nữ, theo khách quan, cũng là những gì lệch lạc, và đối với những con người này, thường trở thành một cuộc thử thách. Cần phải tế nhị tôn trọng chấp nhận những con người như thế. Cần phải kiêng tránh mọi dấu hiệu tỏ ra kỳ thị một cách bất chính. Họ được kêu gọi để làm trọn ý muốn của Thiên Chúa nơi đời sống của họ và liên kết với hy tế của Thập Giá Chúa những khó khăn họ gặp phải (Cf. Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo ["editio typica,"1997], các khoản 2357-2358. Cf. cũng xin xem một số văn kiện của Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin 29 December 1975; 1 October 1986; 23 July 1992; 3 June 2003).

 

Theo chiều hướng của giáo huấn này (Cf. Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo ["editio typica," 1997], n. 2358; cf. also c.I.c., can. 208 and C.C.E.O., can. 11), phân bộ đây, hợp với Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, tin rằng cần phải lên tiếng rõ ràng là Giáo Hội, trong khi hết lòng tôn trọng những con người đang có vấn đề, không thể chấp nhận vào chủng viện hay lãnh chức thánh những ai thực hành vấn đề đồng tính luyến ái, có những khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu nặng hay ủng hộ thứ văn hóa được gọi là ‘văn hóa đồng nam tính’ (Cf. Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, Bản Nhắc Nhở Các Giám Mục Tìm Kiếm Tham Vấn về Các Vấn Đề Liên Quan Tới Vấn Đề Đồng Tính Luyến Ái và Thành Phần Ứng Viên Để Nhận Vào Chủng Viện [9 July 1985]; Thánh Bộ Phụng Tự và Kỷ Luệt Bí Tích, Letter [16 May 2002]: Notitiae 38 [2002], 586.).

 

Thật vậy, những con người này thấy mình rơi vào trường hợp bị trở ngại trầm trọng trong vấn đề liên hệ một cách đứng đắn với con người nam nữ.  Người ta không thể nào được coi thường những hậu quả tiêu cực có thể xuất phát từ việc truyền chức cho những con người có các khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu nặng.

 

Tuy nhiên, trường hợp lại khác ở nơi con người giải quyết những khuynh hướng đồng tính luyến ái, những khuynh hướng chỉ là tình trạng bộc lộ liên quan tới vấn đề chuyển tiếp – chẳng hạn, tình trạng bộc lộ của một thời thanh thiếu niên chưa được thay thế. Tuy nhiên, những khuynh hướng này cần phải được rõ ràng chế ngự tối thiểu là 3 năm trước khi lãnh chức phó tế.

 

3.         Việc Giáo Hội Nhận Thức về Tính Cách Xứng Hợp của Thành Phần Ứng Viên


Có hai yếu tố bất khả phân ly nơi mọi ơn gọi linh mục, đó là tặng ân nhưng không của Thiên Chúa và là ý thức tự do của con người. Ơn gọi là tặng ân của ơn Chúa ban, được lãnh nhận qua Giáo Hội, trong Giáo Hội và để phục vụ Giáo Hội. Đáp lại ơn gọi của Thiên Chúa, con người tự nguyện hiến mình cho Ngài trong yêu mến (Cf. "Pastores dabo vobis," nn. 35-36: AAS 84 [1992], 714-718.). Nguyên ước muốn được trở thành linh mục vẫn không đủ, và không có thứ quyền lợi lãnh nhận chức thánh. Giáo Hội – theo trách nhiệm của mình trong việc xác định những điều kiện cần thiết để lãnh nhận các bị tích do Chúa Kitô thiết lập – cần phải nhận thức được tính cách xứng hợp của con người muốn vào chủng viện (Cf. e.Le., can. 241, § 1), hỗ trợ họ trong những tháng năm được đào luyện, và chọn họ lãnh nhận thánh chức nếu họ được cho là hội đủ những phẩm tính cần thiết (Cf. "Optatam totius," n. 6: AAS 58 [1966], 717. Cf. also e.Le., can. 1029; cf. e.e.E.O., can. 758.).

 

Việc đào luyện linh mục tương lai cần phải đặc biệt ăn khớp một cách hỗ tương thực sự với nhau nơi cả 4 khía cạnh của việc đào luyện, đó là khía cạnh về nhân bản, thiêng liêng, kiến thức và mục vụ (Cf. "Pastores dabo vobis," nn. 43-59: AAS 84 [1992], 731-762.). Về vấn đề này cần phải nhấn mạnh đặc biệt tới tầm quan trọng của vấn đề đào luyện theo khía cạnh nhân bản, như là một căn bản cần thiết của toàn thể việc đào luyện (Cf. ibid., n. 43: AAS 84 [1992], 732.). Để chấp nhận một ứng viên chịu chức phó tế, Giáo Hội cần phải nắm vững một trong những vấn đề cần thiết đó là ứng viên này đã đạt tới tầm mức trưởng thành về mặt tình cảm (Cf. ibid., nn. 44 and 50: AAS 84 [1992], 733-736 và 746-748. Cf. also: Thánh Bộ Phượng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Thư Luân Lưu [10 November 1997]: Notitiae 33 [1997], 507-518, particularly Enclosure V).

 

Lời mời gọi lãnh chức thánh là trách nhiệm riêng của vị giám mục (Cf. Thánh Bộ Giám Mục, Directory for the Pastoral Ministry of Bishops "Apostolorum Successores" (22 February 2004), n. 88) hay của vị bề trên thẩm quyền. Căn cứ vào ý kiến của những ai được ngài trao phó cho trách nhiệm đào luyện, vị giám mục hay vị bề trên thẩm quyền, trước khi chấp nhận một ứng viên lãnh chức thánh, cần phải có một phán đoán vững chắc theo luân lý về những phẩm tính của người ứng viên này. Trong trường hợp cảm thấy hết sức ngờ vực về vấn đề ấy thì ngài không được cho ứng viên ấy chịu chức (Cf. e.Le., can. 1052, § 3; Cf. also e.e.E.O., can. 770.).

 

Việc nhận thức về ơn gọi và tầm mức trưởng thành của ứng viên cũng là một nhiệm vụ hệ trọng của vị giám đốc cũng như của những người được trao phó cho công việc đào luyện ở chủng viện. Trước mỗi một lần phong chức, vị giám đốc cần phải bày tỏ phán đoán riêng của mình về những phẩm tính theo như Giáo Hội đòi hỏi nơi người ứng viên (Cf. e.Le., can. 1051).

 

Vị linh hướng cũng có nhiệm vụ quan trọng trong việc nhận thức liên quan tới tính cách xứng hợp cho việc truyền chức. Dù buộc phải bảo mật, vị linh hướng cũng là đại diện Giáo Hội trong hội đồng nội bộ. Trong cuộc bàn luận với người ứng viên, vị linh hướng cần phải đặc biệt vạch ra cho thấy những đòi hỏi của Giáo Hội liên quan tới đức thanh tịnh linh mục và sự trưởng thành về tình cảm là đặc tính của vị linh mục, cũng như giúp cho họ nhận thức được là họ có những phẩm tính cần thiết hay chăng (Cf. "Pastores dabo vobis," các khoản. 50 và 66: AAS 84 [1992], 746-748 và 772-774. Cũng xem "Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis," n. 48).

 

Vị linh hướng có trách nhiệm thẩm định tất cả mọi phẩm tính của nhân cách ứng viên và phải bảo đảm rằng họ không có những rắc rối trục trặc về tính chất tình dục là những gì bất tương xứng với thiên chức linh mục. Nếu ứng viên sống đời đồng tính luyến ái, hay có những khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu nặng, vị linh hướng, cũng như vị giải tội của họ, có nhiệm vụ phải khuyên can họ theo lương tâm đừng lãnh nhận thánh chức.

 

Chính người ứng viên có trách nhiệm chính yếu đối với việc đào luyện của mình (21 Cf. "Pastores dabo vobis," n. 69: AAS 84 [1992], 778). Họ cần phải tin tưởng phó mình cho việc nhận thức của Giáo Hội, của vị giám mục kêu gọi họ đến lãnh nhận thánh chức, của vị giám đốc chủng viện, của vị linh hướng của họ cũng như của những vị giảng dạy trong chủng viện được đức giám mục hay bề trên thẩm quyền đã trao phó cho việc đào luyện linh mục tương lai. Thật là bất lương thiện khi ứng viên che giấu tính chất đồng tính luyến ái của mình để bất chấp mọi sự tiến lên lãnh nhận thánh chức. Thái độ lừa dối này không tương xứng với tinh thần chân thật, trung thành và cởi mở là những gì làm nên đặc tính của thành phần tin rằng họ được kêu gọi đến để phụng sự Chúa Kitô và Giáo Hội của Người trong thiên chức linh mục thừa tác.

 

Kết luận

 

Thánh Bộ này tái xác nhận việc các vị giám mục, các vị bề trên thẩm quyền cũng như tất cả các thẩm quyền liên hệ cần phải thi hành việc chú tâm nhận thức về tính cách xứng hợp của thành phần ứng viên thánh chức, từ khi họ nhập chủng viện cho tới khi được truyền chức. Việc nhận thức này cần phải được thi hành theo chiều hướng của quan niệm về thiên chức linh mục thừa tác là những gì hợp với giáo huấn của Giáo Hội.

 

Xin các vị giám mục, các hội đồng giám mục và các vị bề trên thẩm quyền xem xét để những qui chuẩn liên tục của bản Hướng Dẫn này được trung thành tuân giữ vì thiện ích của chính các ứng viên, và để bảo đảm rằng Giáo Hội luôn có những vị linh mục xứng đáng là những mục tử tốt lành theo lòng mong ước của Chúa Kitô.

 

Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, hôm 31/8/2005, đã phê chuẩn bản Hướng Dẫn này và truyền ban hành.

 

Tại Rôma ngày 4/11/2005, Tưởng Nhớ Thánh Charles Borromeo, Quan Thày Các Chủng Viện

 

Hồng Y Zenon Grocholewski, Tổng Trưởng

J. Michael Miller, C.S.B, TGM Hiệu Tòa Vertara, Bí Thư

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2005

 

 

Tòa Thánh ban hành Văn Kiện về Việc Truyền Chức Linh Mục với Vấn Đề Đồng Tính Luyến Ái

 

Chính vào ngày Thứ Ba 29/11/2005, ngày Giáo Hội Việt Nam được thêm 57 tân linh mục do Vị Tổng Trưởng Thánh Bộ Truyền Bá Phúc Âm Hóa là Đức Hồng Y Crescenzio Sepe truyền chức tại Nhà Thờ Chính Tòa Hà Nội, thì tại Vatican, Tòa Thánh, qua Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo, đã ban bố một bản hướng dẫn mang tựa đề “Về các Tiêu Chuẩn để Nhận Thức các Ơn Gọi liên quan tới Những Người có Khuynh Hướng Đồng Tính Luyến Ái đối với Việc Chấp Nhận Họ vào Chủng Viện và truyền Thánh Chức”.

 

Bản văn kiện hướng dẫn đề ngày 4/11/2005 mới nhất này của Giáo Hội Công Giáo được ký bởi vị chủ tịch và thư ký của Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo là Đức Hồng Y Zenon Grocholewski và Đức Tổng Giám Mục J. Michael Miller, và đã được Đức Thánh Cha Biển Đức XVI phê chuẩn hôm 31/8/2005.

 

Bản văn kiện này không có gì là mới mẻ mà chỉ lập lại những gì vẫn được Giáo Hội Công Giáo chủ trương về thiên chức linh mục nói chung và việc truyền chức linh mục nói riêng, cũng như với thành phần mắc chứng đồng tính luyến ái.

 

Bản văn kiện, theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo, vẫn tỏ ra tôn trọng những ai mắc chứng đồng tính luyến ái, nhưng phân biệt giữa hành động (bất khả chấp) và khuynh hướng (cần thông cảm nhưng cần chế ngự) đồng tính luyến ái.

 

Bản văn kiện khẳng định là những nam nhân có khuynh hướng nặng nề về vấn đề đồng tính luyến ái không được lãnh chức linh mục. Còn những ai rõ ràng đã chế ngự được khuynh hướng này ít là 3 năm trước khi lãnh chức phó tế thì được.

 

Bản văn kiện cũng nhấn mạnh đến trách nhiệm của các vị giám mục, của các vị bề trên các dòng tu, các huấn luyện viên trong các chủng viện và các vị linh hướng trong chủng viện cần phải nhận thức được tính cách xứng đáng của thành phần ứng viên được chọn làm linh mục.

 

Bản văn kiện cảnh giác là trong trường hợp hồ nghi một cách nghiêm trọng về một ứng viên linh mục nào đó thì không được truyền chức linh mục cho họ hay chính bản thân họ cũng phải ý thức về việc được đào luyện làm linh mục của mình.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, theo tín liệu được Zenit và VIS phổ biến ngày 29/11/2005  

 

 

Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo nhận định về bản Hướng Dẫn mới nhất do ngài soạn thảo

 

Đức Hồng Y Tổng Trưởng Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo là Zenon Grocholewski, vị hồng y người Balan, khi trình bày bản văn này qua Đài Phát Thanh Vatican vào hôm Thứ Ba 29/11/2005, đã cho biết:

 

“Các tờ nhật báo đã nói về bản văn kiện này như thể là một cái gì ngoại thường. Thế nhưng, không có gì là lạ trong việc thánh bộ của chúng tôi phổ biến những văn kiện đặc biệt liên quan tới việc huấn luyện linh mục, vì chúng tôi đã phổ biến khoảng 20 văn kiện kể từ Công Đồng Chung Vaticanô II liên quan tới các khía cạnh khác nhau của việc huấn luyện trong các chủng viện”.

 

Vị hồng y 66 tuổi này cho biết thêm chi tiết về các văn kiện được phân bộ giáo dục công giáo của Tòa Thánh này đã từng ban hành như sau:

 

“Đã có một văn kiện về việc độc thân, về đời sống thanh tịnh linh mục, có những bài nói về các ngăn trở khác nhau đối với thiên chức linh mục. Giờ đây bản văn kiện này không có gì là ngoại thường hết, vì đối với vấn đề đồng tính luyến ái chính Thánh Bộ Tín Lý Đức Tin đã công bố nhiều lần rồi.

 

“Chính thánh bộ này đã công bố nhiều lần vì về lãnh vực này trong thế giới ngày nay đang có một khuynh hướng sai lạc. Nhiều người bênh vực chủ trương rằng tình trạng đồng tính luyến ái là một tình trạng bình thường của con người, là một cái gì đó như là một loại giống tính đệ tam; trái lại, điều này hoàn toàn trái ngịch với khoa nhân loại học. Theo chủ trương của Giáo Hội thì nó trái nghịch với luật tự nhiên và những gì Thiên Chúa đã in ấn nơi bản tính của con người”.

 

Vị hồng y này cũng đề cập tới việc phân biệt rõ ràng nơi cái khác nhau giữa “hành động đồng tính luyến ái” và “khuynh hướng đồng tính luyến ái” như sau:

 

“Các hành động đồng tính luyến ái, theo các Sách Thánh, cả trong Cựu Ước lẫn Tân Ước, từ Thánh Phaolô và sau đó nơi toàn thể Truyền Thống của Giáo Hội được các Công Đồng, được coi là trọng tội, phản lại với lề luật tự nhiên. Bởi thế, không bao giờ được chấp nhận các hành đồng như thế”.

 

Còn về “Xu hướng hay những khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu đậm”, vị hồng y tổng trưởng này cho biết:

 

“Khuynh hướng đồng tính luyến ái này theo Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo được coi là một xu hướng lệch lạc khách quan. Tại sao? Vì một xu hướng như thế chưa phải là tội, nhưng nó không nhiều thì ít xu hướng về một hành vi cử chỉ xấu xa tự bản chất theo quan điểm về luân lý. Bởi thế, những con người này đang sống ở trong tình trạng bị thử thách; họ cần được thông cảm mà không bị kỳ thị bất cứ cách nào. Về phần Giáo Hội, cũng như mọi người, họ được kêu gọi để tuân giữ luật lệ thần linh, mặc dù, có lẽ đối với một số người trong họ, nó sẽ là những gì đớn đau”.

 

Vị hồng ý tổng trưởng còn phân biệt nguyên tắc về 3 hạng người không thể chịu chức linh mục như sau:

 

“Chúng tôi đã chấp nhận như là một nguyên tắc có 3 hạng người không thể được chấp nhận vào chủng viện hay lãnh chức linh mục, đó là những người sống đời đồng tính luyến ái; những người có chiều hướng sâu nặng về vấn đề đồng tính luyến ái, và những người ủng hộ thứ văn hóa gọi là đồng nam tính luyến ái.

 

“Đối với hạng người bị sâu nặng theo khuynh hướng đồng tính luyến ái, chúng tôi thật sự thấy rằng đó là một ngãng trở đới với một thứ liên hệ đứng đắn với con người nam nữ, gây ra những hậu quả tiêu cực đối với việc phát triển mục vụ của Giáo Hội.

 

“Dĩ nhiên, nếu chúng ta nói đến các khuynh hướng đồng tính luyến ái sâu nặng là có ý nói rằng cũng có thể có những khuynh hướng chuyển tiếp là những khuynh hướng không tạo nên ngãng trở. Thế nhưng, trong những trường hớp ấy, chúng cần phải biến mất đi 3 năm trước khi lãnh chức phó tế”.

 

Về vấn đề các vị linh mục có khuynh hướng đồng tính luyến ái, vị hồng y tổng trưởng cho biết:

 

“Những cuộc truyền chức linh mục này đều thành hiệu, vì chúng tôi không khẳng định tính cách bất hiệu thành của chúng. Moôt con người khám phá ra tính chất đồng tính luyến ái của mình sau khi lãnh chức linh mục, hiển nhiên là cần phải sống chính thiên chức linh mục, phải sống đức thanh tịnh. Có thể vị linh mục này cần phải được hỗ trợ thiêng liêng hơn những vị khác, thế nhưng, tôi nghĩ rằng vị ấy cần phải thi hành thiên chức linh mục hết sức của mình”.


Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2005

 

 

Chủ Tịch Hội Đồng Giám Mục Hoa Kỳ hoan nghênh văn kiện của Thánh Bộ Giáo Dục Kitô Giáo về việc tuyển nhận và phong chức cho thành phần đồng tính

 

Đức Giám Mục William Skylstad, giáo phận Spokane, chủ tịch hội đồng giám mục Hoa Kỳ, đã phổ biến một bản văn liên quan tới việc Tòa Thánh ban hành văn kiện “Về các Tiêu Chuẩn để Nhận Thức các Ơn Gọi liên quan tới Những Người có Khuynh Hướng Đồng Tính Luyến Ái đối với Việc Chấp Nhận Họ vào Chủng Viện và truyền Thánh Chức”. Sau đây là những câu tiêu biểu:

 

“Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên đang bàn luận rất nhiều về vấn đề chiều hướng tình dục”.

 

Theo ngài, Giáo Hội xác nhận “phẩm vị của tất cả mọi người và việc tôn trọng cần phải tỏ ra cho tất cả mọi người bất luận xu hướng tính dục”, đồng thời Giáo Hội cũng dạy rằng “Thiên Chúa đã ban tặng ân tính dục cho nhân loại để mang lại mối liên hệ yêu thương giữa một người nam và một người nữ trong cuộc hiệp nhất trọn đời sống hôn nhân hướng về việc tạo nên sự sống mới”.

 

Vị giám mục chủ tịch này cho biết, trong văn kiện ấy, “Thánh Bộ Giáo Dục Công Giáo đang thi hành một thứ hiện thức hóa Kitô giáo về những gì được mong đợi nơi các ứng viên làm linh mục. Tính cách hiện thực này hiểu được những thách đố của thời đại chúng ta”.

 

“Nó bày tỏ mối quan tâm vững chắc là tất cả mọi ứng viên đều cần phải tỏ ra một ‘sự trưởng thành về tình cảm’ khiến họ liên hệ một cách thích hợp như là những vị linh mục thanh tịnh, độc thân, vị có thể trung thành tiêu biểu cho giáo huấn của Giáo Hội về tính dục, bao gồm cả tính cách vô luân của sinh hoạt tình dục đồng phái tính”. 

 

“Chắc chắn là bất khả chấp trong trường hợp một ứng viên thực hành tính cách đồng tính luyến ái, hay, cho dù có chủ động hay không, trong trường hợp họ nhận mình thực sự có xu hướng hay hướng chiều về vấn đề đồng tính luyến ái”.

 

Cũng không thể chấp nhận được một ứng viên “ủng hộ ‘văn hóa đồng nam tính’ và quá chú trọng tới các vấn đề đồng tính luyến ái mà họ không thể nào thực sự tiêu biểu cho giáo huấn của Giáo Hội về dục tính”.

 

Đức giám mục 71 tuổi này nói rằng cuộc bàn luận của truyền thông về bản văn kiện này nêu lên vấn đề là “một nam nhân có khuynh hướng đồng tính luyến ái có thể là một linh mục tốt hay chăng”, và ngài đã cho biết như sau:

 

“Câu trả lời nằm ở nơi đời sống của những con người nam này, thành phần, với ơn Chúa, thực sự là một linh mục dấn thân, hằng ngày làm sao đừng để được phục vụ mà là phục vụ dân của mình, trung thành thể hiện bằng ngôn từ và gương sáng giáo huấn của Giáo Hội cách trọn vẹn, kể cả mạc khải của Thiên Chúa là việc bày tỏ về tình dục được ấn định xẩy ra chỉ giữa một người chồng và một người vợ trong một cuộc hôn nhân yêu thương, trung thành và trao ban sự sống”.

 

Đức Giám Mục Skylstad xin “tất cả mọi vị giám mục cũng như các vị bề trên thẩm quyền hãy lấy Bản Hướng Dẫn này làm cơ hội để bàn luận toàn diện với các vị giám đốc chủng viện cũng như các vị giám đốc ơn gọi về tính cách trưởng thành về tình cảm mà mọi vị ứng viên linh mục cần phải tỏ ra cho thấy”.

 

Vị giám mục này cũng khuyến khích một “cuộc bàn luận trong nguyện cầu và thành kính về những tiêu chuẩn được trình bày trong Bản Hướng Dẫn, giữa các vị giám mục và các bề trên có thẩm quyền với hàng tư tế của các vị, với các cộng đồng tu trì và với các ứng viên ở chủng viện”.

 

Để kết thúc, vị giám mục chủ tịch này nói rằng: “các vị giám mục và các vị bề trên thẩm quyền cần phải dễ dàng trực tiếp nói với những người anh em linh mục và chủng sinh bản thân đang phải đương đầu với những xu hướng đồng tính luyến ái”.

 

“Những cuộc bàn luận này cần phải tỏ ra vừa trung thành với sự thật về thiên chức linh mục được trình bày trong bản Hướng Dẫn này, và vừa tỏ ra tôn trọng, thương cảm, và cảm nhận là những gì Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo nói rằng cần phải được nới rộng cho tất cả những ai đang đương đầu với cuộc đối chọi này”.

 

Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL, chuyển dịch theo tín liệu được Zenit phổ biến ngày 29/11/2005